XUẤT KHẨU SANG EU CÒN KHIÊM TỐN DO TÂM LÝ E NGẠI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU có tốc độ tăng trưởng cao như vậy, nhưng số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang thị trường này chưa tương xứng với tiềm năng…

Số liệu đưa ra tại toạ đàm “Tăng sự hiện diện của doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU” ngày 18/11 cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU giai đoạn từ tháng 8/2020 đến tháng 7/2022 (2 năm thực thi hiệp định EVFTA) đạt 83,4 tỷ USD (trung bình 41,7 tỷ USD/năm), cao hơn 24% kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016-2019.

HÀNG HÓA VIỆT CHỈ CHIẾM 2% NHU CẦU NHẬP KHẨU CỦA EU

Việt Nam đang đứng trước nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai các hoạt động xuất khẩu mở rộng thị trường sang EU, khi cả Việt Nam và EU đang đẩy mạnh phục hồi hậu đại dịch, tích cực nối lại các hoạt động kinh tế, giao thương. EVFTA cũng là  ưu thế lớn của Việt Nam khi hiện mới chỉ có 4 quốc gia châu Á ký FTA với EU. 

Tuy nhiên, hiện nay số lượng doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU gia tăng chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng. Dư địa gia tăng xuất khẩu vào thị trường EU còn rất lớn, khi hàng hóa Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng nhu cầu nhập khẩu mỗi năm của thị trường 27 nước thành viên.

Nguyên nhân do nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại về những tiêu chuẩn kỹ thuật cao từ thị trường các nước EU. Do vậy, họ thường lựa chọn giải pháp an toàn, tập trung nhiều vào các thị trường truyền thống. Đây cũng là điểm hạn chế, làm giảm đi lợi thế “người đi đầu” của doanh nghiệp Việt Nam trong EVFTA.

Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng, Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), thẳng thắn nhìn nhận rằng dư địa còn rất lớn. Thị phần nhiều mặt hàng chiến lược của chúng ta như thủy sản, rau quả… thị phần vẫn còn rất thấp. Rau quả chỉ chiếm thị phần khoảng hơn 2-3%, thủy sản khoảng hơn 4%, kể cả may mặc cũng chỉ 4%, tức là những mặt hàng thế mạnh chiến lược của chúng ta dư địa thị phần rất ít và dư địa còn lớn.

Ngoài ra, doanh nghiệp của chúng ta hiện nay vẫn còn gia công khá nhiều. Số lượng thương hiệu còn khá khiêm tốn.

Nói về nguyên nhân việc tiếp cận thị trường EU còn hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng lý do lớn nhất là rất nhiều doanh nghiệp chưa từng có giao dịch nào với thị trường EU, cho nên không hưởng lợi từ hiệp định này.

Điều này cho thấy có vấn đề về việc kết nối hạn chế, câu chuyện của xúc tiến thương mại cho hàng hóa Việt Nam chúng ta ở thị trường EU chưa mạnh, nên số lượng đối tác EU hoặc số khách hàng của EU biết đến Việt Nam còn rất ít.

Hơn nữa, theo đại diện VCCI, trong bối cảnh hiện nay EU đang đặc biệt nhấn mạnh tới những tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn nhân văn, vấn đề lao động, thuế carbon… để đáp ứng các tiêu chuẩn này không chỉ là thách thức với những doanh nghiệp chưa từng xuất khẩu sang EU mà còn là thách thức với cả doanh nghiệp đã từng quen thuộc có kinh nghiệm ở EU.

Đáng e ngại, bà Trang nhấn mạnh, yếu tố lớn nhất, cản trở lớn nhất tiếp cận EU lại chính là năng lực cạnh tranh hạn chế của doanh nghiệp.

TĂNG KẾT NỐI, KHÔNG ĐỂ DOANH NGHIỆP NHỎ MÃI TRONG MẮT KHÁCH HÀNG

Để gia tăng sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam tại thị trường EU, bà Trang khẳng khái, rất cần vai trò của Nhà nước. Mọi hỗ trợ phải bắt đầu từ doanh nghiệp. Doanh nghiệp vướng ở chỗ nào thì hỗ trợ của Nhà nước sẽ hướng vào, tập trung vào những điểm đó.

Cụ thể, phải thúc đẩy các hoạt động về xúc tiến thương mại và kết nối giao thương giữa các doanh nghiệp Việt Nam với lại các doanh nghiệp đối tác ở các thị trường, đặc biệt phải xúc tiến thương mại cho cả một ngành hàng để khi khách hàng nghĩ đến sản phẩm của Việt Nam, họ nhớ đến thương hiệu sản phẩm.

Mặt khác, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua những rào cản về mặt kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm… như hỗ trợ kiểm tra miễn phí để đảm bảo hàng hóa an toàn cho xuất khẩu, không bị trả lại.

Thậm chí đào tạo cho doanh nghiệp biết rõ quy trình EU đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng, trên cơ sở đó họ sẽ tuân thủ để có thể tiếp cận được thị trường.

Đồng thời, có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh ở từng khía cạnh một về chất lượng sản phẩm, về mẫu mã, bao bì sản phẩm...

“Chúng ta tìm được những giải pháp hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp, chắc chắn sẽ gia tăng sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam tại thị trường EU”, bà Trang tự tin nói.

Một cách khác, theo bà Trang, sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có thể hiện diện, được hưởng gián tiếp từ việc tham gia vào các chuỗi cung toàn cầu, xuất khẩu qua thương mại điện tử. Đây cũng là cách để các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa có thể tham gia xuất khẩu sang thị trường EU.

Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO), nhấn mạnh tới vai trò của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương trong hỗ trợ doanh nghiệp tham gia xúc tiến thương mại. Đặc biệt với Bộ Công Thương, cần tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm một cách bài bản hơn, từ cách trang trí đến thiết kế gian hàng…

“Nếu không có sự đồng hành của các Bộ ngành, doanh nghiệp Việt Nam cứ nhỏ mãi trong mắt khách hàng. Một công ty chỉ được 4-6 mét vuông trong hội chợ, không đủ chỗ trang trí, không đủ chỗ tư vấn khách hàng… thì khách hàng vẫn nhìn nhận doanh nghiệp ở mức dưới, chưa cần quan tâm”, ông Khuê lưu ý, đồng thời nhấn mạnh, để tăng sự kết nối với khách hàng, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các yêu cầu đặt ra của thị trường nhập khẩu…

TIN TỨC LIÊN QUAN

Trung Quốc Mở Rộng Vị Thế Xuất Khẩu Toàn Cầu Trong Khi Mỹ Tập Trung Vào Tự Cung Tự Cấp

Bên ngoài nước Mỹ, nhu cầu toàn cầu đối với hàng hóa Trung Quốc đang đạt mức cao kỷ lục. Mặc dù là mục tiêu chính của các mức thuế quan từ Hoa Kỳ, Trung Quốc vẫn tiếp tục mở rộng quan hệ thương mại với châu Phi, Đông Nam Á và châu Âu trong năm 2025. Khi Trung Quốc củng cố vị thế là cường quốc thương mại toàn cầu, Mỹ lại đang chuyển hướng sang chiến lược tự chủ kinh tế.

ASEAN Trở Thành Trung Tâm Vận Tải Hàng Không Đa Phương Thức

Chiến lược “China +1”, vốn trước đây chỉ được xem như một giải pháp tạm thời nhằm đa dạng hóa sản xuất ngoài Trung Quốc, nay đã phát triển thành xu hướng tái cấu trúc dài hạn của chuỗi cung ứng toàn cầu

ngành hàng thực phẩm và gia vị Việt Nam từng bước chinh phục thị trường thế giới

Doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực thực phẩm – gia vị đang từng bước mở rộng thị trường quốc tế với chiến lược “đi bằng chất lượng thật”. Sự kết hợp giữa hương vị bản địa và hệ thống chứng chỉ quốc tế khắt khe đã giúp sản phẩm Việt tạo được niềm tin lớn hơn với nhà mua toàn cầu.

TIN TỨC LIÊN QUAN

GLOTRANS VIỆT NAM CHÀO MỪNG NGÀY DOANH NHÂN VIỆT NAM 13/10

Glotrans Việt Nam xin gửi lời chúc mừng trân trọng và tốt đẹp nhất đến Quý Doanh nhân, Quý Khách hàng và Đối tác – những người đã, đang và sẽ luôn là nguồn cảm hứng, động lực phát triển không ngừng của nền kinh tế Việt Nam.

GLOTRANS VIỆT NAM THAM DỰ FIATA WORLD CONGRESS 2025

Từ ngày 6–10/10/2025, Glotrans Việt Nam vinh dự tham dự FIATA World Congress 2025 (FWC 2025) – sự kiện lớn nhất toàn cầu của ngành logistics, lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội.

Trung Thu Đong Đầy – Yêu Thương Lan Tỏa Cùng Glotrans Việt Nam

Trăng Rằm tháng Tám luôn mang đến những khoảnh khắc ấm áp của đoàn viên và sẻ chia. Với Glotrans, Trung Thu không chỉ là dịp sum họp bên gia đình, bạn bè mà còn là dịp để gắn kết, lan tỏa yêu thương trong đại gia đình Glotrans Việt Nam.

TIN TỨC LIÊN QUAN

Giá trị pháp lý của giám định tổn thất được bảo hiểm

Công ty Q (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) và Công ty B (Bị đơn - Bên bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng các Bên không thống nhất về giá trị tổn thất nên đã phải tiến hành giám định. Giám định đơn phương của Bên bảo hiểm không được chấp nhận và giám định độc lập chỉ được chấp nhận một phần.

Hợp đồng bảo hiểm không chấm dứt khi chậm thanh toán phí

Theo hợp đồng, phí bảo hiểm được thanh toán thành ba kỳ và trong cả ba kỳ, người mua bảo hiểm đều chậm thanh toán. Khi có tranh chấp, doanh nghiệp bảo hiểm (Bị đơn) cho rằng hợp đồng bảo hiểm đã chấm dứt trước ngày xảy ra sự cố được bảo hiểm xuất phát từ việc chậm thanh toán tiền bảo hiểm nên không thanh toán tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài theo hướng ngược lại.

Nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất của bên mua bảo hiểm

Công ty T (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty B (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Sự kiện bảo hiểm đã xảy ra và Bên bảo hiểm cho rằng Bên mua bảo hiểm đã vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất. Hội đồng Trọng tài không phủ nhận nghĩa vụ của Bên mua bảo hiểm nhưng cho rằng Bên này không vi phạm nghĩa vụ phòng ngừa, hạn chế tổn thất.

TIN TỨC LIÊN QUAN